Công nghệ vũ trụ: Việt Nam đi sau cần theo hướng nào?
Ngày nay trên thế giới, công nghệ vũ trụ đã có bước tiến dài, khẳng định vị thế và tiềm lực của mỗi quốc gia, mang lại nhiều lợi ích trong phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh.
Để chạy đua trong lĩnh vực này, nhiều nước đã đầu tư nguồn kinh phí khổng lồ. Nhận thức được điều đó, những năm qua, Việt Nam đã chú trọng đầu tư, nghiên cứu, từng bước làm chủ công nghệ vũ trụ. Tuy nhiên, là quốc gia đi sau và tiềm lực kinh tế còn hạn chế, Việt Nam cần lựa chọn hướng đi và phát triển sản phẩm phù hợp.
Những bước tiến của công nghệ vũ trụ
Những năm qua, ngành công nghệ vũ trụ đã có bước tiến dài, đánh dấu nhiều cột mốc mới. Có thể kể đến như sự kiện ngày 1-1-2019, Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA) thông báo tàu vũ trụ New Horizons đã thực hiện chuyến bay xa nhất trong lịch sử khi tiếp cận được vật thể Ultima Thule ở Vành đai Kuiper. Tàu New Horizons ở cách bề mặt của vật thể Ultima Thule khoảng 3.540km với tốc độ bay 50.694km/h. Hay như sự kiện Tập đoàn SpaceX của tỷ phú Elon Musk đã chia sẻ những hình ảnh về tàu vũ trụ Starship, con tàu hứa hẹn sẽ đưa con người lên Sao Hỏa vào năm 2024. Ở khu vực Đông Nam Á, nhiều nước đã thành lập Cơ quan hàng không vũ trụ quốc gia như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Philippines...
Nhóm kỹ sư của của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam bên sản phẩm vệ tinh MicroDragon. Ảnh do Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cung cấp |
Tại Việt Nam, ngày 4-2-2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) vũ trụ đến năm 2030. Thời gian qua, ngành vũ trụ Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định như: Phóng 2 vệ tinh viễn thông VINASAT, 1 vệ tinh quan sát trái đất VNREDSat lên quỹ đạo vũ trụ; tự chế tạo 3 vệ tinh cỡ nhỏ “made in Vietnam” (PicoDragon, NanoDragon và MicroDragon)... Những kết quả từ việc phát triển công nghệ vệ tinh giúp kết nối và hỗ trợ các giao dịch thương mại, mang lại những lợi ích to lớn về kinh tế và quốc phòng, an ninh, trở thành công cụ không thể thiếu để ứng phó với thảm họa, bảo tồn môi trường, bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ đa dạng sinh học, quản lý thời tiết, cung cấp dịch vụ y tế từ xa và quản lý các hoạt động nông nghiệp...
Việt Nam phát triển hệ thống vệ tinh nhỏ
Theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy, công nghệ vũ trụ là công nghệ cao nhất, kết tinh của các công nghệ cao trên thế giới và luôn luôn là cuộc chơi của những quốc gia dẫn dắt. Tuy Việt Nam còn nhiều hạn chế về tiềm lực kinh tế và KH&CN nhưng chúng ta đã có những kết quả nghiên cứu để làm chủ công nghệ vũ trụ và từ đó có thể phát triển một số sản phẩm của riêng mình.
Chiến lược phát triển và ứng dụng KH&CN vũ trụ đến năm 2030 cũng đặt ra một số mục tiêu cụ thể, trong đó có việc làm chủ được công nghệ thiết kế, chế tạo, tích hợp các cảm biến quang học, radar cho vệ tinh quan sát trái đất; lắp ráp, tích hợp, kiểm tra ở trong nước vệ tinh nhỏ có độ phân giải cao, siêu cao.
PGS, TS Phạm Anh Tuấn, Tổng giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) cho biết, ngày nay, xu thế kích thước của vệ tinh ngày càng nhỏ đi, thời gian chế tạo ngắn lại, yêu cầu công nghệ cũng đơn giản hơn, đây chính là cơ hội cho các quốc gia như Việt Nam có thể tham gia vào cuộc chơi này. Tuy nhiên, chúng ta không nên nhìn dưới con mắt cạnh tranh mà nên tham gia với tâm thế hợp tác, phối hợp, chia sẻ dữ liệu để chúng ta dễ dàng tiếp cận hơn với các nguồn dữ liệu khác. Hiện Chính phủ cũng đã định hướng vào phát triển và ứng dụng vệ tinh nhỏ, từng bước xây dựng chùm vệ tinh nhỏ quan sát trái đất. Đây chính là một trong những công nghệ tốt nhất, ảnh hưởng sâu rộng nhất trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của một quốc gia được đưa ra bởi Liên hợp quốc.
Để hiện thực hóa giấc mơ từng bước chinh phục vũ trụ, PGS, TS Phạm Anh Tuấn đề xuất, Việt Nam nên xác định không gian vũ trụ là một trong 5 không gian (vùng đất, vùng trời, vùng biển, không gian mạng và không gian vũ trụ) mà chúng ta cần làm chủ để bảo vệ quyền lợi quốc gia. Để làm chủ được không gian đó là một chặng đường rất dài, chông gai, cần nhiều nỗ lực và đầu tư chiến lược dài hạn. Vì vậy, công nghệ vũ trụ cần có sự đầu tư lớn về các nguồn lực tài chính, nhân lực và cả thời gian. Chính phủ Việt Nam cần bảo đảm định hướng phát triển cân đối và bền vững cho lĩnh vực này bằng việc xây dựng Luật Vũ trụ của Việt Nam, đây là tiền đề để các thành phần khác yên tâm đầu tư phát triển. Việt Nam cũng cần thành lập cơ quan hàng không vũ trụ quốc gia và sớm tham gia các công ước của Liên hợp quốc về sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình.
Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, Việt Nam cần thúc đẩy nhu cầu khai thác các ứng dụng từ công nghệ vũ trụ, tạo nhu cầu đủ hấp dẫn các thành phần kinh tế, các startup công nghệ cùng tham gia xây dựng nền kinh tế vũ trụ. Tăng cường hợp tác quốc tế, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ, rút ngắn khoảng cách để có thể tham gia đóng góp vào những chương trình nghiên cứu chung của thế giới. Tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, tránh đầu tư phát triển không đồng bộ, trùng lặp, thiếu hiệu quả.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy cho rằng, cần chú trọng đào tạo đội ngũ con người, đào tạo nhiều hơn nữa các chuyên gia về công nghệ vũ trụ không chỉ cho viện nghiên cứu mà cho trường đại học, rộng hơn nữa là các doanh nghiệp. Bởi ngày nay, công nghệ vũ trụ không chỉ là “cuộc chơi” của các Chính phủ mà còn là cuộc cạnh tranh của các tập đoàn và doanh nghiệp tư nhân hàng đầu. Để làm được điều đó cần cơ chế đãi ngộ tốt, môi trường làm việc thuận lợi, thu hút các chuyên gia hàng đầu thế giới về Việt Nam làm việc, nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực kế cận.
LA QUANG DUY