Việt Nam vượt Singapore, Philippines trong việc trao cơ hội kinh tế cho phụ nữ

Việt Nam xếp hạng 58/190 quốc gia trong chỉ số trao cơ hội kinh tế cho phụ nữ về mặt pháp lý, theo Báo cáo Phụ nữ, Doanh nghiệp và Pháp luật năm 2022 của World Bank. Báo cáo đo lường mức độ ảnh hưởng của luật và các quy định tại 190 quốc gia trong 8 lĩnh vực liên quan đến cơ hội kinh tế của phụ nữ – bao gồm khả năng tự do đi lại, môi trường làm việc, lương, kết hôn, thai sản, khởi nghiệp, tài sản, và chế độ hưu trí.

"Gần 2,4 tỷ phụ nữ trên toàn cầu không có quyền kinh tế như nam giới", Báo cáo về Phụ nữ, Doanh nghiệp và Pháp luật năm 2022 của Ngân hàng Thế giới (World Bank) cho biết.

Theo đó, 178 quốc gia đang duy trì các rào cản pháp lý ngăn cản sự tham gia đầy đủ của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế. Tại 86 quốc gia, phụ nữ phải đối mặt với một số hình thức hạn chế họ làm việc và 95 quốc gia không đảm bảo trả lương bình đẳng cho công việc tương tự.

Báo cáo cũng đo lường mức độ ảnh hưởng của luật và các quy định tại 190 quốc gia trong 8 lĩnh vực liên quan đến cơ hội kinh tế của phụ nữ – bao gồm khả năng tự do đi lại, môi trường làm việc, lương, kết hôn, thai sản, khởi nghiệp, tài sản, và chế độ hưu trí. Bộ dữ liệu giúp xây dựng các tiêu chuẩn khách quan và có thể dùng để đo lường sự tiến bộ toàn cầu về bình đẳng giới. Chỉ có 12 quốc gia, tất cả đều là thành viên của OECD, đạt được bình đẳng giới về mặt pháp lý, với điểm số 100 trên 100 điểm (100 điểm biểu thị sự ngang bằng hoàn toàn về mặt pháp lý).

Việt Nam có điểm số 85, xếp hạng 58, trên các quốc gia Đông Nam Á khác như Singapore, Philippines, Thái Lan; và đứng sau Lào.

Việt Nam vượt Singapore, Philippines trong việc trao cơ hội kinh tế cho phụ nữ - Ảnh 1.

Thứ tự bảng xếp từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Nguồn: World Bank.

Việt Nam được đánh giá đã áp dụng các cải cách trong lĩnh vực Lương (Pay). Cụ thể, Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng bằng cách loại bỏ các ràng buộc nghề nghiệp đối với phụ nữ, trong khi duy trì các biện pháp đảm bảo an toàn và sức khỏe nghề nghiệp cho cả nam lẫn nữ.

"Trong khi phụ nữ không mang thai hoặc cho con bú trước đây bị cấm làm hơn 70 công việc cụ thể, từ khoan thăm dò giếng dầu đến sửa chữa đường dây điện cao thế, thì nay họ có thể làm tất cả các công việc như nam giới. Đáng chú ý, luật yêu cầu người sử dụng lao động phải đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động và thông báo cho cả nam và nữ về những rủi ro khi làm công việc nhất định đối với sức khỏe sinh sản của họ", báo cáo cho biết.

Theo báo cáo, trên toàn cầu, phụ nữ mới chỉ có 3/4 các quyền hợp pháp nam giới được hưởng – với số điểm tổng hợp là 76,5 trên 100 điểm. Tuy nhiên, mặc dù đại dịch toàn cầu tác động không đồng đều đến cuộc sống và sinh kế của phụ nữ, 23 quốc gia đã cải cách pháp lý trong năm 2021 để thực hiện các bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy sự hòa nhập kinh tế của phụ nữ.

Trên toàn cầu, số lượng cải cách được thực hiện nhiều nhất đối với các chỉ số về Thai sản, Lương và Môi trường làm việc. Nhiều cải cách tập trung vào bảo vệ chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc, cấm phân biệt đối xử về giới, tăng thời gian nghỉ có lương cho các cha mẹ mới sinh con và dỡ bỏ các hạn chế việc làm đối với phụ nữ. Các chỉ số về Lương và Thai sản có điểm trung bình thấp nhất trong chỉ số WBL, nhưng đã tăng lần lượt 0,9 điểm và 0,7 điểm trong năm ngoái lên đến điểm trung bình là 68,7 điểm và 55,6 điểm. Mức tăng trong chỉ số Thai sản chủ yếu xoay quanh chế độ cho phép người cha nghỉ sinh con và cho phép cả bố và mẹ nghỉ sinh con, nhưng điểm số thấp cho thấy sự cần thiết phải đẩy nhanh cải cách trong lĩnh vực này.

Bà Carmen Reinhart, Phó Chủ tịch Cao cấp kiêm Chuyên gia Kinh tế trưởng của Nhóm Ngân hàng Thế giới, cho biết: "Phụ nữ không thể đạt được bình đẳng ở nơi làm việc nếu họ không bình đẳng ở nhà. Điều đó có nghĩa cần tạo môi trường bình đẳng và đảm bảo rằng việc có con không cản trởi việc tham gia đầy đủ vào nền kinh tế và hiện thực hóa hy vọng và tham vọng của người phụ nữ."

Trên toàn thế giới, 118 nền kinh tế đảm bảo các bà mẹ được hưởng 14 tuần nghỉ phép có trả lương. Hơn một nửa (114) nền kinh tế được khảo sát cho phép người cha được nghỉ phép có lương, nhưng thời gian trung bình chỉ kéo dài một tuần.

Năm ngoái, Đặc khu hành chính Hồng Kông, Trung Quốc đã tăng thời gian nghỉ thai sản có lương từ 10 tuần lên mức được khuyến nghị tối thiểu là 14 tuần. Armenia, Thụy Sĩ và Ukraine đã ban hành quy định về chế độ cho phép người cha nghỉ sinh con có trả lương. Colombia, Georgia, Hy Lạp và Tây Ban Nha đã ban hành chế độ cho phép cha mẹ được nghỉ phép có trả lương, trong đó cho phép cả cha và mẹ được hưởng một số hình thức nghỉ có lương để chăm sóc con sau khi sinh. Các quy định khuyến khích người cha nghỉ có lương có thể giảm bớt sự phân biệt đối xử tại nơi làm việc và cải thiện sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống.

Lượt xem: 228
Bài viết liên quan

Nội dung đang cập nhật...