Gia tăng việc sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý cho dẫn độ, tương trợ tư pháp
Báo cáo mới đây về việc sử dụng Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng (UNCAC) làm cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ, tương trợ tư pháp cho thấy, việc sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý cho các hoạt động nêu trên tiếp tục gia tăng trong các đợt đánh giá của chu trình thứ hai.
Sau khi cập nhật tiến độ thực hiện các nhiệm vụ của Cuộc họp Nhóm chuyên gia liên chính phủ mở rộng nhằm tăng cường hợp tác quốc tế, Ban Thư ký UNCAC (Cơ quan Phòng, chống Ma tuý và Tội phạm Liên hợp quốc – UNODC) mới đây đã có Báo cáo về việc sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ, tương trợ tư pháp, hợp tác thực thi pháp luật, tố tụng dân sự và hành chính và thu hồi tài sản.
Báo cáo được trình bày tại Cuộc họp nhóm Đánh giá thực thi UNCAC lần thứ 16 diễn ra hồi tháng 9/2025 tại Cộng hòa Áo, với sự tham gia của 123 quốc gia thành viên UNCAC, trong đó có Việt Nam.
Gia tăng việc sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý cho dẫn độ, tương trợ tư pháp. Ảnh: Ngọc Anh
Sẵn sàng sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý cho dẫn độ
Trong quá trình đánh giá việc thực thi UNCAC, đa số các quốc gia thành viên cho biết khi tiếp nhận hoặc gửi yêu cầu dẫn độ, họ không đặt điều kiện dẫn độ dựa trên cơ sở một hiệp định có sẵn. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết quốc gia thành viên đều dựa vào các thỏa thuận dựa trên các hiệp định.
Theo Ban Thư ký UNCAC, hầu hết các quốc gia thành viên đều khẳng định sẵn sàng sử dụng Công ước làm cơ sở pháp lý, và một số quốc gia đã thông báo cho Tổng Thư ký Liên hợp quốc về việc này. Chỉ có 1 quốc gia gián tiếp coi Công ước là cơ sở pháp lý, tức là yêu cầu dẫn độ đến từ 1 quốc gia thành viên mà quốc gia đó không ký kết hiệp định dẫn độ sẽ được xem xét một cách nghiêm túc và được thực hiện theo một thỏa thuận trên cơ sở có đi có lại.
“Có 115 quốc gia thành viên đã xác nhận khả năng sử dụng Công ước làm cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ, nhưng trên thực tế, số lượng các vụ việc liên quan đến vấn đề này còn hạn chế. 10% quốc gia thành viên này báo cáo đã sử dụng Công ước làm cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ”, theo Ban Thư ký UNCAC.
Tại một quốc gia thành viên có thể sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý, trên thực tế, Công ước của Liên hợp quốc về Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (UNTOC) đã được sử dụng làm cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ. Trong một số trường hợp, mặc dù UNCAC không phải là cơ sở pháp lý, nhưng nó có thể được sử dụng để mở rộng phạm vi của một hiệp định song phương về các tội danh có thể bị dẫn độ.
Tuy nhiên, Ban Thư ký UNCAC nhận định, hiện có một thách thức là trong khi hiến pháp của một số quốc gia cho phép áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế đã được phê chuẩn, thì các quốc gia thành viên khác chỉ có thể thực thi các điều ước bằng cách nội luật hoá các quy định của điều ước.
Một số quốc gia ưu tiên các hiệp định dẫn độ song phương và sau đó là hiệp định khu vực vì chúng thường được xây dựng phù hợp với các yêu cầu pháp lý cụ thể trong nước và sự hiểu biết đầy đủ về các thủ tục pháp lý tương ứng của các bên.
Có 115 quốc gia thành viên đã xác nhận khả năng sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ. Ảnh: Ngọc Anh
Các hiệp định tương trợ tư pháp song phương được ưu tiên
Theo Ban Thư ký UNCAC, nhiều quốc gia xác nhận khả năng coi UNCAC là cơ sở pháp lý cho tương trợ tư pháp hơn là đối với dẫn độ. Tuy nhiên, các hiệp định tương trợ tư pháp song phương thường được ưu tiên và dự kiến sẽ được viện dẫn đầu tiên (hoặc ít nhất là song song với UNCAC) nếu chúng áp dụng cho một yêu cầu liên quan đến tham nhũng.
Theo khoản 7, Điều 46 của UNCAC, nếu các quốc gia thành viên không bị ràng buộc bởi một hiệp định tương trợ tư pháp, các khoản từ 9 đến 29 của UNCAC sẽ được áp dụng cho tất cả các yêu cầu tương trợ tư pháp theo Điều 46. Nếu các quốc gia thành viên bị ràng buộc bởi một hiệp định tương trợ tư pháp, các điều khoản tương ứng của hiệp định đó sẽ được áp dụng, trừ khi các quốc gia thành viên đồng ý áp dụng Điều 46 thay thế.
Các cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định sử dụng các điều khoản của UNCAC hay các hiệp định song phương, có tính đến đặc thù của từng trường hợp cụ thể, đồng thời lưu ý rằng, như đã nêu tại khoản 6, Điều 46 các điều khoản liên quan của UNCAC không ảnh hưởng đến các nghĩa vụ hiện có giữa các bên theo các hiệp ước hoặc thỏa thuận khác, cũng như không ngăn cản các bên tương trợ cho nhau theo các hiệp ước hoặc thỏa thuận mới.
“Các quốc gia thành viên cũng được khuyến khích tìm hiểu khả năng ký kết các thỏa thuận bổ sung liên quan đến tương trợ tư pháp như một phương tiện để thực hiện hoặc tăng cường các điều khoản của UNCAC trong lĩnh vực này”, Ban Thư ký UNCAC cho biết.
Về phạm vi tương trợ tư pháp và việc sử dụng các công cụ pháp lý khác, bên cạnh UNCAC, hầu hết quốc gia thành viên UNCAC đã tham gia các công ước khu vực hoặc quốc tế về tương trợ tư pháp trong các vấn đề hình sự như Công ước Liên châu Mỹ về Chống tham nhũng và Công ước Châu Âu về Tương trợ tư pháp trong các vấn đề hình sự, như một cách để khắc phục những trở ngại cản trở việc tương trợ, đặc biệt là trong các vụ việc liên quan đến các quốc gia thành viên có hệ thống pháp luật và truyền thống khác nhau, và để tăng cường trao đổi thông tin hiệu quả.
Một vài quốc gia thành viên chỉ rõ rằng, UNCAC chỉ có thể được sử dụng làm cơ sở pháp lý khi áp dụng nguyên tắc có đi có lại, trái ngược với mức độ linh hoạt đáng kể giữa các quốc gia thành viên trong việc thực hiện Điều 46 của UNCAC.
Trong khi đó, một số quốc gia thành viên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổ chức đào tạo và cung cấp thông tin cho cán bộ liên quan về các văn bản pháp lý quốc tế hiện hành, cũng như về nội dung và yêu cầu của các yêu cầu tương trợ tư pháp.
Thanh tra viên chính Nguyễn Thu Trang, Cục Phòng, Chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực (Cục IV, Thanh tra Chính phủ), công chức đại diện đoàn Việt Nam tham dự các cuộc họp trong khuôn khổ thực thi UNCAC tại Cộng hòa Áo, tháng 9/2025. Ảnh: Thu Trang
Đáng chú ý, Ban Thư ký UNCAC cho rằng, việc thiếu thống nhất trong chỉ định các đầu mối tương trợ tư pháp theo các văn bản quốc tế khác nhau, sự chậm trễ trong phản hồi của họ và việc thay đổi thường xuyên các cán bộ đầu mối là những trở ngại cho sự hợp tác vì quyết định về việc sử dụng một thỏa thuận quốc tế dựa trên cơ quan trung ương được chỉ định cho các thỏa thuận đó.
Trong chu trình đánh giá việc thực thi UNCAC đầu tiên, trong số 206 thực tiễn tốt được xác định cho Điều 46, việc sử dụng hiệu quả hoặc khả năng sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý cho tương trợ tư pháp đã được xác định là thực tiễn tốt đối với 9 quốc gia thành viên. Hơn nữa, trong số 1.143 khuyến nghị được ban hành dành cho Chương IV, khoảng 10% liên quan đến việc sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý cho tương trợ tư pháp.
Về nguyên tắc, các quốc gia thành viên có thể sử dụng Công ước và các văn kiện khác như UNTOC làm cơ sở pháp lý cho hợp tác pháp lý song phương, nhưng nhiều quốc gia thành viên áp dụng nguyên tắc có đi có lại, cho phép họ tương trợ tư pháp song phương ngay cả khi không có hiệp định.
Trong quá trình đánh giá, ở một quốc gia thành viên, việc sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý gặp phải nhiều thách thức vì tất cả các quy định của UNCAC đều cần nội luật hoá. Các chuyên gia đánh giá lưu ý rằng, việc sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý sẽ đơn giản hóa các thủ tục và tăng cường hợp tác với các quốc gia thành viên khác của Công ước.
“Tương tự như đối với dẫn độ, việc sử dụng UNCAC làm cơ sở pháp lý cho tương trợ pháp lý song phương tiếp tục gia tăng trong các đợt đánh giá của chu trình thứ hai”, Ban Thư ký UNCAC nhấn mạnh.